Những câu chuyện thần bí và Đạo
Câu chuyện số 1. Chim Đa Đa –
Ông là người Việt gốc Miên, cha mẹ nghèo khổ. Lúc mới 7 tuổi đã vào tu tại một ngôi chùa Miên ở Sóc Trăng.
Khoãng 13, 14 tuổi vào một dịp nọ, ông cùng một bạn tu trốn chùa về làng người bạn chơi.
Người bạn biết rõ những người trong làng, bài kế cho ông ta coi bói cho họ để gạt lấy tiền xài.
Dĩ nhiên ông bói trúng như thần được nhiều người thán phục.
Không may trong sóc (làng) vừa có một gia đình mất một con trâu đến nhờ ông ta coi bói để tìm lại nó. Ông bối rối hoãn binh, khất hẹn ngày hôm sau sẽ coi quẻ cho.
Chiều hôm đó, hai kẻ gian bàn kế đến suốt cả buổi và vô kế khả thi, lo lắng liên hồi sợ bị cả làng lật tẩy nguyền rủa.
Tối đó ông Chim Đa Đa thao thức không ngủ được, trằn trọc cả đêm. Ông ta khấn vái đủ danh hiệu quỷ thần: Thần hoàng, Thổ địa, kể cả ông Tà, Bà la sát v. v.. mà ông ta tin tưởng theo tập tục của người dân quê.
Mệt quá ông ngủ quên lúc nào không biết, bỗng ông ta thấy mình chạy là đà trên mặt đất băng qua nhiều cánh đồng hoang dã và cuối cùng dừng lại trước một gốc cây mục. Ông ta nghe tiếng nói từ gốc cây đó phát ra chỉ rõ cái chỗ mà con trâu bị người ta lấy trộm.
Thức giấc chưa kịp kiểm chứng mọi chuyện, người mất trâu đã đến từ lúc nào, giục ông xem quẻ.
Ông nói lại địa điểm mà ông được chỉ cho trong mộng.
Thật bất ngờ, sau đó người chủ đã tìm lại được con trâu và đã tạ ơn ông một số tiền. Nhờ đó hai chàng tu sĩ trẻ ham chơi có đủ tiền mua vé xe về chùa.
Từ đó về sau ông có khả năng coi bói và từ từ nổi tiếng, coi đâu trúng đó (cho đến bây giờ ông vẫn còn coi bói kiếm tiền).
Già đố người đọc cái ông vô hình đó là ai mà công khai giành đệ tử của Phật Thích Ca và ngang nhiên giúp ông ta coi bói kiếm tiền học pháp thuật với hơn 90 danh sư Cao Miên (sẽ kể lần lượt sau này) và hộ độ cho ông ta sau này trở thành một vị hòa thượng trụ trì một ngôi chùa lớn ở Cao Miên? oÔng nội vô hình đó là chánh hay tà?
Xin chào tái ngộ
Thầygià- ngày 11-08-08
Ông là người Việt gốc Miên, cha mẹ nghèo khổ. Lúc mới 7 tuổi đã vào tu tại một ngôi chùa Miên ở Sóc Trăng.
Khoãng 13, 14 tuổi vào một dịp nọ, ông cùng một bạn tu trốn chùa về làng người bạn chơi.
Người bạn biết rõ những người trong làng, bài kế cho ông ta coi bói cho họ để gạt lấy tiền xài.
Dĩ nhiên ông bói trúng như thần được nhiều người thán phục.
Không may trong sóc (làng) vừa có một gia đình mất một con trâu đến nhờ ông ta coi bói để tìm lại nó. Ông bối rối hoãn binh, khất hẹn ngày hôm sau sẽ coi quẻ cho.
Chiều hôm đó, hai kẻ gian bàn kế đến suốt cả buổi và vô kế khả thi, lo lắng liên hồi sợ bị cả làng lật tẩy nguyền rủa.
Tối đó ông Chim Đa Đa thao thức không ngủ được, trằn trọc cả đêm. Ông ta khấn vái đủ danh hiệu quỷ thần: Thần hoàng, Thổ địa, kể cả ông Tà, Bà la sát v. v.. mà ông ta tin tưởng theo tập tục của người dân quê.
Mệt quá ông ngủ quên lúc nào không biết, bỗng ông ta thấy mình chạy là đà trên mặt đất băng qua nhiều cánh đồng hoang dã và cuối cùng dừng lại trước một gốc cây mục. Ông ta nghe tiếng nói từ gốc cây đó phát ra chỉ rõ cái chỗ mà con trâu bị người ta lấy trộm.
Thức giấc chưa kịp kiểm chứng mọi chuyện, người mất trâu đã đến từ lúc nào, giục ông xem quẻ.
Ông nói lại địa điểm mà ông được chỉ cho trong mộng.
Thật bất ngờ, sau đó người chủ đã tìm lại được con trâu và đã tạ ơn ông một số tiền. Nhờ đó hai chàng tu sĩ trẻ ham chơi có đủ tiền mua vé xe về chùa.
Từ đó về sau ông có khả năng coi bói và từ từ nổi tiếng, coi đâu trúng đó (cho đến bây giờ ông vẫn còn coi bói kiếm tiền).
Già đố người đọc cái ông vô hình đó là ai mà công khai giành đệ tử của Phật Thích Ca và ngang nhiên giúp ông ta coi bói kiếm tiền học pháp thuật với hơn 90 danh sư Cao Miên (sẽ kể lần lượt sau này) và hộ độ cho ông ta sau này trở thành một vị hòa thượng trụ trì một ngôi chùa lớn ở Cao Miên? oÔng nội vô hình đó là chánh hay tà?
Xin chào tái ngộ
Thầygià- ngày 11-08-08
Thần Nguyễn Trung Trực-chuyện có thật
Câu chuyện số 2 tiếp theo kỳ trước về Chimđađa
Chimđađa là người Việt gốc Miên. Thời cuộc biến ông ta thành người Miên gốc Việt. Chuyện này lại có dính líu đến một ông thần Việtnam -thần Nguyễn Trung Trực.
Các chi tiết làm cho ông ta phải dời cư từ Sóc Trăng sang Cambốt rất là phức tạp. Chỉ biết rằng ông ta phải đi vì thời cuộc và hoàn cảnh.
Ông ta cho biết lúc đó túng tiền và không hề có người quen ở Campuchea. Thật là cảnh tiến thoái lưỡng nan (trước mặt thì hố sâu, sau lưng thì bị cọp rượt).
Lẩn thẩn lòng vòng ngoài đường phố, rồi quay về chổ tạm trú, tâm trạng ông ta thật chán chường gần như hoàn toàn bị tuyệt vọng.
Cái ông này thật là lạ lùng, đi tu thì theo nhà Phật-khi bị dồn vào cảnh khốn cùng thì lại cầu khẩn với thần linh!
Lần này ông lại cầu khẩn với thần Nguyễn Trung Trực, mà địa phương ông ở có tượng thờ còn dân chúng thì tin tưởng thần này mãnh liệt.
Ông thành khẩn cầu nguyện rồi cũng được cảm ứng. Trong mộng ông thấy thần Nguyễn Trung Trực dạy bảo ông ngày hôm sau cứ ngồi ở địa điểm đó, vào giờ đó, thì sẽ có quý nhân đến giúp đở và ông nên khởi hành theo lộ trình được chỉ định.
Ngày hôm sau đúng theo sự báo mộng, có cặp vợ chồng nọ đến hỏi tên ông và trao cho ông giỏ đồ ăn và một gói tiền. Họ bảo là do thần Nguyễn Trung Trực sai bảo họ làm như vậy.
Ông phấn khởi ra đi về phía biên giới Cambốt nhưng lòng lúc nào cũng vẫn hoang mang không ngừng vì không có giấy tờ và người thân bên đó.
Rồi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác thần xui quỷ khiến đã có mấy bà Miên nghèo gặp và mời ông về trụ trì một ngôi chùa xấu xí, hoang vắng mà không một tu sĩ địa phương nào chịu đến. Lần hồi họ chạy chọt, xoay sở giấy tờ hợp pháp cho Chimđađa ở lại đất Miên. Thế rồi ông cũng yên thân yên chổ buổi đầu trên đất lạ.
Chimđađa cho biết chính thần Nguyễn Trung Trực trước sau đã hiện thân giúp ông 3 lần. Lần chót ông còn nhớ mãi câu nói của thần: “đây là phần đất cuối cùng của Việt Nam do ta cai quản, con cứ đi về phía trước sẽ có người giúp đở tiếp ở phía bên kia.”
Lần lượt già sẽ kể đến những câu chuyện của người khác có liên quan tới sự hiển linh của thần Lê Văn Duyệt và Đức Thánh Trần Hưng Đạo.
Thầy già ngày 12 tháng 8, 2008
Chimđađa là người Việt gốc Miên. Thời cuộc biến ông ta thành người Miên gốc Việt. Chuyện này lại có dính líu đến một ông thần Việtnam -thần Nguyễn Trung Trực.
Các chi tiết làm cho ông ta phải dời cư từ Sóc Trăng sang Cambốt rất là phức tạp. Chỉ biết rằng ông ta phải đi vì thời cuộc và hoàn cảnh.
Ông ta cho biết lúc đó túng tiền và không hề có người quen ở Campuchea. Thật là cảnh tiến thoái lưỡng nan (trước mặt thì hố sâu, sau lưng thì bị cọp rượt).
Lẩn thẩn lòng vòng ngoài đường phố, rồi quay về chổ tạm trú, tâm trạng ông ta thật chán chường gần như hoàn toàn bị tuyệt vọng.
Cái ông này thật là lạ lùng, đi tu thì theo nhà Phật-khi bị dồn vào cảnh khốn cùng thì lại cầu khẩn với thần linh!
Lần này ông lại cầu khẩn với thần Nguyễn Trung Trực, mà địa phương ông ở có tượng thờ còn dân chúng thì tin tưởng thần này mãnh liệt.
Ông thành khẩn cầu nguyện rồi cũng được cảm ứng. Trong mộng ông thấy thần Nguyễn Trung Trực dạy bảo ông ngày hôm sau cứ ngồi ở địa điểm đó, vào giờ đó, thì sẽ có quý nhân đến giúp đở và ông nên khởi hành theo lộ trình được chỉ định.
Ngày hôm sau đúng theo sự báo mộng, có cặp vợ chồng nọ đến hỏi tên ông và trao cho ông giỏ đồ ăn và một gói tiền. Họ bảo là do thần Nguyễn Trung Trực sai bảo họ làm như vậy.
Ông phấn khởi ra đi về phía biên giới Cambốt nhưng lòng lúc nào cũng vẫn hoang mang không ngừng vì không có giấy tờ và người thân bên đó.
Rồi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác thần xui quỷ khiến đã có mấy bà Miên nghèo gặp và mời ông về trụ trì một ngôi chùa xấu xí, hoang vắng mà không một tu sĩ địa phương nào chịu đến. Lần hồi họ chạy chọt, xoay sở giấy tờ hợp pháp cho Chimđađa ở lại đất Miên. Thế rồi ông cũng yên thân yên chổ buổi đầu trên đất lạ.
Chimđađa cho biết chính thần Nguyễn Trung Trực trước sau đã hiện thân giúp ông 3 lần. Lần chót ông còn nhớ mãi câu nói của thần: “đây là phần đất cuối cùng của Việt Nam do ta cai quản, con cứ đi về phía trước sẽ có người giúp đở tiếp ở phía bên kia.”
Lần lượt già sẽ kể đến những câu chuyện của người khác có liên quan tới sự hiển linh của thần Lê Văn Duyệt và Đức Thánh Trần Hưng Đạo.
Thầy già ngày 12 tháng 8, 2008
Chimdada trị tà-(Chuyện thần bí và Đạo)
(tiếp theo 2 kỳ trước)
Câu chuyện thứ 3- Chimdada trị bịnh tà
Sư huynh của Chimdada tu ở 1 chùa Miên tại miền Tây, thuật cho đệ tử của thầygià nghe là Chim đã trị bịnh tà cho con của 1 vị tướng ở Thái Lan. Ông cho biết cuộc trị bịnh tà này diển ra ồn ào cả 1 khu phố. Người ta tụ tập đến xem, kể cả cảnh sát Thái.
Chim đã dùng một thau nước sôi dội lên đầu của người bị quỷ nhập, kết quả người bịnh được lành.
Sau đó Chim có gặp thầygià, thầygià hỏi lại. Chim cho biết nước không có nóng, còn người bịnh là con của một vị tướng Cao Miên sống tại Thái Lan.
Sau đây thầygià chỉ sơ qua cho các bạn đọc cái lý của việc trị bịnh tà:
1. Các người trị bịnh phải có ấn lịnh của Thánh Thần và am hiểu luật siêu hình. Hình thức trị tùy theo tông phái: có người dùng cây roi mây, đọc thần chú đánh vào khoảng không. Có người kiết ấn đánh ở xa. Có người dùng cành lá nhúng nước rãi lên người bịnh.
Tất cả cách này và những cách khác đều có thể làm cho con tà la hét, năn nỉ và xuất khỏi xác. Nhưng tuyệt đối không được đánh cái xác của người bị bịnh.
2. Không thạo việc trị bịnh tà thì đừng làm càn, đừng bày trò đưa hình Phật, hình Chúa, kể cả bùa phép để trấn áp con bịnh, có khi bị nó đánh hoặc nó rượt chạy mà mất mặt.
3. Phải biết vô hình là Thánh thần hay phần âm. Nếu là phần âm, nó có nợ nần gì với gia đình người bịnh không? Nó muốn gì?
4. Đừng tưởng người có bùa phép hoặc địa vị cao trong tôn giáo họ hiểu rõ cách trị tà, kể cả mấy ông pháp sự trị tà chuyên nghiệp (họ có khi chỉ biết một phần nào mà thôi).
Sau đây là một số thí dụ thực tế:
__ Một ông đạo Nước lạnh ở tại đạo tràng của mình bị tà khoát tay thật mạnh vào mặt. Nổi sùng, ông ta và 2 tay đệ tử khác nhào vô vật cái xác của người đàn bà bị bịnh, đè người ta mà đánh túi bụi.
Đúng là đánh xác người chứ đâu phải đánh tà!
__ Một ông hoà thượng nổi tiếng trị bịnh tà, ỷ ăn ngọ (trường chay), thường tự hào là đức hạnh, đệ tử của ông coi ông như là Phật sống.
Trong một lần trị bịnh, xác con tà là một cô gái trẻ nhảy vào ngồi trong lòng ông. Ông nổi sân si tát cho cô gái mấy tát (chắc phần vô hình ngồi cười hả hê:cái ông Phật gì mà sợ nử sắc, sợ ô danh, hung dử đánh người ta!).
__ Một ông sư cụ trụ trì 1 ngôi chùa ở tỉnh, không chuyên nghiệp trị tà, nghe nói chú Lăng Nghiêm oai phong dữ lắm trị được cả Thiên ma, làm tàng xách cái mõ để trên đầu con bịnh, vừa gỏ vừa tụng chú. Trước chánh điện con tà gạt cái mõ văng xuống đất, mắng ông: “Ông phước đức bao nhiêu mà để cái mõ trên đầu tui! (thật xấu hổ trước mặt khoãng 30 đệ tử còn ở lại sau 1 buổi tụng kinh tối).
__ Đức Giáo Hoàng John Paul II cách đây mấy năm có trị một ngườì bịnh tà, là cô gái Công giáo (sau một thời gian giáo hội công bố có lập 1 ủy ban chuyên nghiên cứu việc trị tà). Ông nhân danh Thượng Đế ra lịnh con tà phải ra khỏi xác người bịnh.
Con bịnh trả lời: “ Cái Đầu của ông tôi còn chưa sợ huống chi là ộng!”.
Cuối cùng con tà vẫn còn ở lại cái xác của cô gái đó.
__ Báo chí cũng đã từng viết lại nhiều vụ về mấy ông giáo sỉ , pháp sư nhiều đạo khác nhau trị bịnh tà, nổi nóng đánh chết người bịnh, phải vô tù ở.
Tóm lại phải là nhân viên công quyền hửu thệ (hửu hình hoặc vô hình) mới xen vào được các vụ phạm pháp (hửu hình hay vô hình).
Ký tên: Thầy già ngày 13 tháng 8, 2008
Câu chuyện thứ 3- Chimdada trị bịnh tà
Sư huynh của Chimdada tu ở 1 chùa Miên tại miền Tây, thuật cho đệ tử của thầygià nghe là Chim đã trị bịnh tà cho con của 1 vị tướng ở Thái Lan. Ông cho biết cuộc trị bịnh tà này diển ra ồn ào cả 1 khu phố. Người ta tụ tập đến xem, kể cả cảnh sát Thái.
Chim đã dùng một thau nước sôi dội lên đầu của người bị quỷ nhập, kết quả người bịnh được lành.
Sau đó Chim có gặp thầygià, thầygià hỏi lại. Chim cho biết nước không có nóng, còn người bịnh là con của một vị tướng Cao Miên sống tại Thái Lan.
Sau đây thầygià chỉ sơ qua cho các bạn đọc cái lý của việc trị bịnh tà:
1. Các người trị bịnh phải có ấn lịnh của Thánh Thần và am hiểu luật siêu hình. Hình thức trị tùy theo tông phái: có người dùng cây roi mây, đọc thần chú đánh vào khoảng không. Có người kiết ấn đánh ở xa. Có người dùng cành lá nhúng nước rãi lên người bịnh.
Tất cả cách này và những cách khác đều có thể làm cho con tà la hét, năn nỉ và xuất khỏi xác. Nhưng tuyệt đối không được đánh cái xác của người bị bịnh.
2. Không thạo việc trị bịnh tà thì đừng làm càn, đừng bày trò đưa hình Phật, hình Chúa, kể cả bùa phép để trấn áp con bịnh, có khi bị nó đánh hoặc nó rượt chạy mà mất mặt.
3. Phải biết vô hình là Thánh thần hay phần âm. Nếu là phần âm, nó có nợ nần gì với gia đình người bịnh không? Nó muốn gì?
4. Đừng tưởng người có bùa phép hoặc địa vị cao trong tôn giáo họ hiểu rõ cách trị tà, kể cả mấy ông pháp sự trị tà chuyên nghiệp (họ có khi chỉ biết một phần nào mà thôi).
Sau đây là một số thí dụ thực tế:
__ Một ông đạo Nước lạnh ở tại đạo tràng của mình bị tà khoát tay thật mạnh vào mặt. Nổi sùng, ông ta và 2 tay đệ tử khác nhào vô vật cái xác của người đàn bà bị bịnh, đè người ta mà đánh túi bụi.
Đúng là đánh xác người chứ đâu phải đánh tà!
__ Một ông hoà thượng nổi tiếng trị bịnh tà, ỷ ăn ngọ (trường chay), thường tự hào là đức hạnh, đệ tử của ông coi ông như là Phật sống.
Trong một lần trị bịnh, xác con tà là một cô gái trẻ nhảy vào ngồi trong lòng ông. Ông nổi sân si tát cho cô gái mấy tát (chắc phần vô hình ngồi cười hả hê:cái ông Phật gì mà sợ nử sắc, sợ ô danh, hung dử đánh người ta!).
__ Một ông sư cụ trụ trì 1 ngôi chùa ở tỉnh, không chuyên nghiệp trị tà, nghe nói chú Lăng Nghiêm oai phong dữ lắm trị được cả Thiên ma, làm tàng xách cái mõ để trên đầu con bịnh, vừa gỏ vừa tụng chú. Trước chánh điện con tà gạt cái mõ văng xuống đất, mắng ông: “Ông phước đức bao nhiêu mà để cái mõ trên đầu tui! (thật xấu hổ trước mặt khoãng 30 đệ tử còn ở lại sau 1 buổi tụng kinh tối).
__ Đức Giáo Hoàng John Paul II cách đây mấy năm có trị một ngườì bịnh tà, là cô gái Công giáo (sau một thời gian giáo hội công bố có lập 1 ủy ban chuyên nghiên cứu việc trị tà). Ông nhân danh Thượng Đế ra lịnh con tà phải ra khỏi xác người bịnh.
Con bịnh trả lời: “ Cái Đầu của ông tôi còn chưa sợ huống chi là ộng!”.
Cuối cùng con tà vẫn còn ở lại cái xác của cô gái đó.
__ Báo chí cũng đã từng viết lại nhiều vụ về mấy ông giáo sỉ , pháp sư nhiều đạo khác nhau trị bịnh tà, nổi nóng đánh chết người bịnh, phải vô tù ở.
Tóm lại phải là nhân viên công quyền hửu thệ (hửu hình hoặc vô hình) mới xen vào được các vụ phạm pháp (hửu hình hay vô hình).
Ký tên: Thầy già ngày 13 tháng 8, 2008
Những chuyện thần bí và đạo (tiếp theo)
Câu chuyên số 4- Chimdada cầu đạo
Nền đạo giáo Cao miên bắt đầu bằng Bà la môn giáo. Bà lamôn giáo thờ 3 thần tối cao: Brahma tượng trưng cho Thượng Đế, hai thần khác là Vishnu (thần xây dựng) và Shiva (thần hủy diệt).
Sau đó Phật giáo Đại thừa được truyền vào Cambốt. Không bao lâu sau Tiểu thừa Phật Giáo thay thế cho Đại Thừa.
Ngày nay Phật giáo Tiểu thừa là nền quốc giáo của Cao mien. Nền Tiểu thừa Phật giáo và bùa phép của Cao mien cũng tương tự như các nước Thái Lan, Lào và Miến điện.
Đừng tưởng đơn giản như vậy. Các tu sĩ Cao miên thờ ông Thích Ca, không thờ 10 phương chư Phật và Bồ tát của Đại thừa. Nhưng các cao tăng ở đây ông nào cũng bùa phép đầy mình gần như cho mua bùa thỉnh phép một cách công khai (trong thư viện Hoàng gia và chùa lớn nhất của quốc gia đều lưu trử các lá khăn ấn và các đạo bùa do các tổ sư truyền lại từ xưa đến nay)
Mấy năm trước đây Chim đã về Campuchea có mang về hai bản copy về bùa phép khoãng 50 trang giấy của thư viện Hoàng gia và có tặng cho thầy già một phóng bản.
Các ông sư trong chùa từ lúc thiếu thời không lạ gì với bùa phép do các ông thầy của mình cho người ta đến thỉnh. Đọc kinh, tụng kinh Phật bằng tiếng Pali hằng ngày nhưng chùa chiền lúc nào cũng tràn ngập các loại bùa phép của các thần linh Bàlamôn giáo.
Các cao tăng được trọng nể bằng các phép lạ ông ta thi triển hơn là các bản kinh nhàm chán trong nhà Phật.
Chính Chimdada cũng đã tự thú với thầy già gần đây là “pháp thuật nó đen và thuộc về Bàlamôn giáo”.
Riêng thầy già thì không nghĩ như vậy mà xác định rằng “nó thấy đen mà trắng vì đứng đằng sau bùa phép là các đấng thần linh và Thượng Đế” (chuyện dài này thầy già sẽ giải thích về sau).
Niềm tin Bàlamôn giáo có lẽ đó là một tin tưởng không thành văn nằm trong tiềm thức của các tu sỉ Tiểu thừa ở các nước Đông Nam Á.
Chính vì vậy mà khi còn rất trẻ Chimdada luôn luôn cầu khẩn sự giúp đở của đủ thứ thần linh mà dân gian truyền tụng là linh hiển. Và khi trưởng thành nhờ vào số tiền coi bói Chim đã quyết định đi cúng dường cầu học hơn 90 mấy danh sư nổi tiếng về pháp thuật.
Đừng tưởng lầm thi triển phép lạ (pháp thuật) không phải là đạo. Bất cứ tôn giáo nào mà mất phép lạ, chuyện thần bí do thánh thần phía sau hổ trợ cho, tôn giáo đó sẽ là tôn giáo chết chỉ có cái xác không hồn.
Trở về với việc cầu đạo Chimdada cho biết các ông sư các ông thầy mà ông cầu học, có các đòi hỏi về lễ vật khác nhau: có ông đòi một con trâu, có ông đòi một món tiền lớn, có ông ngộ nghỉnh đòi một sợi dây bằng vàng dài từ đầu tới gót v.v.
Coi như Chim có lòng cầu đạo không thua gì Trừ Cái Chướng Bồ tát (của Mật tông Đại Thừa) được đức Phật hiện thân đến bảo dâng của lể quý giá nhất để cầu cho đuợc câu chú (om mani padme hum của đức Quan Thế Âm với một ông đạo sư lè phè ở ngoài đời.
Ký tên thầy già - ngày 15 tháng 8, 2008
Câu chuyên số 4- Chimdada cầu đạo
Nền đạo giáo Cao miên bắt đầu bằng Bà la môn giáo. Bà lamôn giáo thờ 3 thần tối cao: Brahma tượng trưng cho Thượng Đế, hai thần khác là Vishnu (thần xây dựng) và Shiva (thần hủy diệt).
Sau đó Phật giáo Đại thừa được truyền vào Cambốt. Không bao lâu sau Tiểu thừa Phật Giáo thay thế cho Đại Thừa.
Ngày nay Phật giáo Tiểu thừa là nền quốc giáo của Cao mien. Nền Tiểu thừa Phật giáo và bùa phép của Cao mien cũng tương tự như các nước Thái Lan, Lào và Miến điện.
Đừng tưởng đơn giản như vậy. Các tu sĩ Cao miên thờ ông Thích Ca, không thờ 10 phương chư Phật và Bồ tát của Đại thừa. Nhưng các cao tăng ở đây ông nào cũng bùa phép đầy mình gần như cho mua bùa thỉnh phép một cách công khai (trong thư viện Hoàng gia và chùa lớn nhất của quốc gia đều lưu trử các lá khăn ấn và các đạo bùa do các tổ sư truyền lại từ xưa đến nay)
Mấy năm trước đây Chim đã về Campuchea có mang về hai bản copy về bùa phép khoãng 50 trang giấy của thư viện Hoàng gia và có tặng cho thầy già một phóng bản.
Các ông sư trong chùa từ lúc thiếu thời không lạ gì với bùa phép do các ông thầy của mình cho người ta đến thỉnh. Đọc kinh, tụng kinh Phật bằng tiếng Pali hằng ngày nhưng chùa chiền lúc nào cũng tràn ngập các loại bùa phép của các thần linh Bàlamôn giáo.
Các cao tăng được trọng nể bằng các phép lạ ông ta thi triển hơn là các bản kinh nhàm chán trong nhà Phật.
Chính Chimdada cũng đã tự thú với thầy già gần đây là “pháp thuật nó đen và thuộc về Bàlamôn giáo”.
Riêng thầy già thì không nghĩ như vậy mà xác định rằng “nó thấy đen mà trắng vì đứng đằng sau bùa phép là các đấng thần linh và Thượng Đế” (chuyện dài này thầy già sẽ giải thích về sau).
Niềm tin Bàlamôn giáo có lẽ đó là một tin tưởng không thành văn nằm trong tiềm thức của các tu sỉ Tiểu thừa ở các nước Đông Nam Á.
Chính vì vậy mà khi còn rất trẻ Chimdada luôn luôn cầu khẩn sự giúp đở của đủ thứ thần linh mà dân gian truyền tụng là linh hiển. Và khi trưởng thành nhờ vào số tiền coi bói Chim đã quyết định đi cúng dường cầu học hơn 90 mấy danh sư nổi tiếng về pháp thuật.
Đừng tưởng lầm thi triển phép lạ (pháp thuật) không phải là đạo. Bất cứ tôn giáo nào mà mất phép lạ, chuyện thần bí do thánh thần phía sau hổ trợ cho, tôn giáo đó sẽ là tôn giáo chết chỉ có cái xác không hồn.
Trở về với việc cầu đạo Chimdada cho biết các ông sư các ông thầy mà ông cầu học, có các đòi hỏi về lễ vật khác nhau: có ông đòi một con trâu, có ông đòi một món tiền lớn, có ông ngộ nghỉnh đòi một sợi dây bằng vàng dài từ đầu tới gót v.v.
Coi như Chim có lòng cầu đạo không thua gì Trừ Cái Chướng Bồ tát (của Mật tông Đại Thừa) được đức Phật hiện thân đến bảo dâng của lể quý giá nhất để cầu cho đuợc câu chú (om mani padme hum của đức Quan Thế Âm với một ông đạo sư lè phè ở ngoài đời.
Ký tên thầy già - ngày 15 tháng 8, 2008
Bài 5 và 6 Thiên linh cái
Cái chuyện thiên linh cái hình như hầu hết người Việt Nam nào cũng biết. Mỗi người đồn một kiểu. Nào là lấy cái đầu của cô gái còn trinh, bị sét đánh hay chết vào giờ linh gì đó v.v. đem về đọc thần chú luyện mấy tháng mấy ngày thì cái con ma cái đó nó linh hiển vô cùng, có thể sai nó đi làm đủ thứ chuyện bậy bạ nhằm phục vụ cho chủ của nó (ông thày pháp). Nó còn biết giúp cho ông ta coi bói, coi đâu trúng đó (thực tế cái linh hồn này hoàn toàn vô năng ngoại trừ nhát ma người ta).
Cái câu chuyện nhảm nhí như vậy mà ở thời đại khoa học vẫn còn có nhiều người tin theo. Trong số đó có cả ông Chim, chẳng nhửng ông ta tin mà còn dâng của lể cho ông lục già để cầu học.
Trong một đêm tối vào giờ thiêng gì đó, ông ta theo ông Lục ra nghĩa địa đào mộ cho tới khi thấy cái quan tài, khui nắp quan tài xong, ngồi đó mà đọc thần chú và chắc nói lời dụ dổ cái linh hồn người chết, nào là theo lục về chùa nghe kinh tu học, đi lang thang bơ vơ, đói lạnh chi cho khổ… nếu đồng ý thì bật dậy cho lục biết.
Cái thây ma bật dậy. Như thế có nghỉa là đồng ý. Ông Chim cưa lấy cái đầu đem về chùa luyện phép.
Ông Chim này khờ quá, tuy là ham học, ham tìm hiểu, nhưng lựa chi cái pháp thuật quỷ quái này, có ích lợi gì đâu. Ông ta đã có cái tài coi bói để sống, đã có nhiều quyền năng khác để nổi tiếng, nổi danh phục vụ cho đời như trị bịnh tà, bịnh sưng trặc, nhức đầu v.v., rước chi cái oan hồn vô dụng này đem về chùa mà người ta không hiểủ sẽ cho ông là tà đạo.
Sau này ông ta kể cho thầy già nghe chuyện này nhưng có vẻ hối hận. Ông thấy cái đầu lâu tội nghiệp quá ông đem để dưới phía bàn thờ Phật để cho nó nghe kinh và ông ta thật sự lo sợ mà nói với thầy già không biết sau này ông ta có bị trả cái nghiệp quả là bị nguời ta cứa cổ lại hay không?Riêng đệ tử của thầy già, trong những thời công phu thường thấy có các phần âm về xin quy y. Họ đã làm lễ cho các vong hồn đó quy y Phật Trời, dạy họ niệm Phật trì chú và xin cho họ theo thánh thần học đạo.
(cần chi ba cái xác, cái đầu thúi tha đó họ mới học được đạo.)
Bài 6- Lý giải
Thiên Linh Cái mới đầu cũng chỉ là một vong hồn bình thường. Từ khi được kết nạp vào băng đảng của thầy pháp, nó bắt đầu được huấn luyện để làm bậy, và làm việc dưới quyền của đám quỷ thần của ông thầy pháp. Đám quỷ thần này trước kia cũng chỉ là những quân lính của chính quyền, 1 cơ quan siêu hình nào đó. Nhưng sau đó phạm luật siêu hình, âm thầm kết cấu với nhau để làm ác.
Chánh quyền cấp cao hơn chưa phát hiện được những chuyện sai quấy của đám gian đảng này vì chúng khéo che giấu chân tướng. Càng ngày chúng càng làm những việc tội ác lớn lao hơn, vi phạm luật nên bị điều tra và kết tội.
Một người thường theo ông pháp sư để luyện thiên linh cái tức là một người bắt đầu theo một tổ chức tội ác. Thiên linh cái theo người mới gia nhập là một âm binh mới, kinh nghiệm và tài năng kể như không gì đáng kể. Cái đám âm binh cũ của ông thầy pháp mới là những kẻ chỉ huy ở đằng sau. Nên nói kẻ có khả năng làm bậy đúng là ông thầy pháp và đám âm binh cũ chứ không phải thiên linh cái.
Nói thiên linh cái có quyền năng thật sự là không đúng nên gọi là vô năng.
Khi bị kết tội thì ông thầy pháp là chính, và người luyện thiên linh cái là kẻ đồng đảng. Thiên linh cái chẳng qua cũng chỉ là một âm binh bị lợi dụng. Còn về tội nặng nhẹ có thể khác nhau.
Nếu tội liên hệ đến giết người thì ông thầy pháp bị kết tội tử hình. Nếu tội liên quan đến ăn cướp có thể tội ở cấp trung, nếu ăn trộm thì nhẹ hơn.
Có thể coi cái người luyện thiên linh cái, ông pháp sư và gia đình của họ bị trừng phạt như thế nào thì một phần có thể hiểu ông ta phạm luật siêu hình ra sao.
Thầy già được biết 3 trường hợp cụ thể của 3 người làm việc cho thánh thần:
__ Một ông thầy bùa có hai cuốn sổ về pháp thuật: 1 cuốn ác và 1 cuốn thiện. Ọng có việc tranh chấp lớn với 1 người hàng xóm và dùng phép ếm làm chết đứa con trai của ông kia. Khoãng thời gian ngắn sau, đứa con trai của ông cũng tự nhiên chết bất đắc kỳ tử. Ông tự hiểu đó là quả báo. Từ đó ông đốt đi cuốn sổ ác, chỉ phổ biến cuốn sổ thiện. Ông ấy sống trên 90 tuổi.
__ Một ông thầy bói nổi tiếng ở Sài Gòn ngày xưa, có tiếng xì xầm ông luyện thiên linh cái. Cuối đời ông chết vì bị cứa cổ.
__Một ông thầy bói nổi tiếng là ngậm ngãi mà nói (nói đâu trúng đó), sau bà vợ cũng ra coi bói, quãng cáo rất rộng rãi: Coi tướng, coi phong thủy, giúp vợ chồng hòa thuận v.v..
Không biết ông này có luyện thiên linh cái hay là không? (Chắc là có). Bà vợ và đứa con gái sau này bị người ta cứa cổ chết.
Hẹn tái ngộ
Thầy già ngày 17-08-08
Thần bí và đạo bài 6-Lý giải thiên linh cái
Thần bí và đạo- Bài 7- Thần Lê Văn Duyệt
Lạt Ma Tây Tạng (thần bí và đạo bài 8)
Điểm Đạo và Trộm Đạo (thần bí và đạo bài 9)
Hang Pắc Bó (thần bí và đạo bài 10)
Phép tàng hình Bài 11
bài 12 -Bệnh vô hình
bài 13- Nguyên lý Đạo là một
bài 14- Nguyên lý Đạo là một 2
Nhận lệnh viết bài, trò già xin viết về câu chuyện mà từ lâu thầy già đã xem qua video, và có một bản lý lịch về cuộc đời và hoạt động của John D. từ thập niên 60 cho đến gần đây, nhân vật chánh trong chuyện này.
John tốt nghiệp quân đội và phục vụ tại nhiều nước khác nhau. Ông có qua Việt nam phục vụ hai nhiệm kỳ (khoãng 5, 6 năm). Cấp bực cuối cùng của ông trong quân đội Mỹ là Đại tá phản gián, phụ tá cho ông W. Colby. Sau khi được giải ngũ, ông về tiếp tục kinh doanh công ty xe vận tải của gia đình, và công ty xuất nhập cảng cho thị trường Đông Nam Á, làm đại diện cho hội thương nghiệp gồm có 50 công ty lớn trong tiểu bang…
Sau 75, ông có về Việtnam hai lần với tư cách là thương gia, có ghé thăm lại địa đạo ở Củ Chi, và thăm người bạn đã điểm đạo cho ông vào khoãng 99, lúc đó ông 61 tuổi.
Ông là người theo đạo Tin Lành. Trong email gởi cho trò già, ông nói khi được điểm đạo, ông ngồi niệm thầm danh hiệu của Thượng Đế, thì ông thấy bằng mắt thứ ba, hình ảnh của chính ông đang ngồi xếp bằng, và thấy một viên kim cương màu đen trên nền trắng. Khoãng 2, 3 phút sau, hình ảnh mờ dần và biến mất. Ông nghe nói 2 lần bên tai: “Rồi con sẽ được hiểu”, như để trả lời thắc mắc của ông.
Một thời gian sau (năm 2000), ông đến gặp trò già tại nhà của một người đệ tử, và được chứng kiến khoãng 10 đệ tử có thần lực chuyển lễ trước bàn thờ Phật.
Đến phiên ông ra đứng trước bàn thờ cầu nguyện thì thần lực chuyển ông đến quỳ gối ở phía trước chổ trò già ngồi, nhưng không đối diện mà xéo qua một bên.
Lúc đó, có một đệ tử tên Sam (người Do thái, ăn chay trường và tu Yoga, được trò già điểm đạo vào khoãng 1993, hiện là luật sư cho cơ quan di trú của chánh phủ ở cấp cao) có thần lực chuyển rất mạnh, bước tới trước mặt trò già và đưa tay lên trán chào nghiêm theo kiểu… quân đội: Người thẳng như khúc gổ, ngực ưởng ra, chân đánh vào nhau và giậm xuống đất nghe cụp cụp. Cứ chào xong một lần là ra điệu bộ vuốt quần, vuốt áo, chỉnh lại vị trí rồi chào tiếp- cứ chào và sửa bộ như vậy trên 10 lần. Sau đó bước đến bên John đang quỳ, kéo John xích qua để đối diện với trò già, và hướng dẫn cho John cúi đầu đảnh lễ.
John bỗng đứng dậy và chấp tay lên, sau đó nằm xấp mặt xuống đất, hai tay, hai chân duỗi thẳng (đại lễ của Tây Tạng). Khi ấy, mọi người nhìn thấy lưng của John rung động tưởng chừng như ông đang khóc.
Thần lực lại chuyển một đệ tử khác diễn lại cái cảnh nhà binh chào thượng cấp: bàn tay kiết ấn đưa lên trán, rồi hạ tay xuống, đập nghe chan chát vào một bên đùi, chân thì nện đùng đùng xuống đất trông rất mãnh liệt và oai phong, đếm cũng có mười mấy gần 20 lần.
Tiếp theo là mọi người được trả về bình thường. John cho biết lúc ông cầu nguyện để xin thọ nhận lá phép của Mật tông, ông nghe nói bên tai: "con chưa sẳn sàng" và " con chưa xứng đáng". Tuy có hơi buồn, nhưng ông rất xúc động, và cảm kích vì được chứng nghiệm phép lạ. Ông nói là trước khi ông đáp máy bay đến đây, ông đã tốn bạc ngàn để đi dự một buổi họp tâm linh tại một thành phố khác mà không có thâu hoạch được gì về tâm linh cả.
Ông cho biết thêm ông và Sam không có quen biết nhau, nhưng từ trong cái bắt tay nhau đầu tiên tại đây, hai người đã nhận ra nhau là huynh đệ thuộc hội huyền bí Tam Điểm (Freemasons).
Còn Sam, thì ngoài việc xác nhận lời nói của John, ông nói thêm là những gì ông chứng nghiệm ngày hôm nay thật là "lạ lùng đến kinh ngạc", vì ông hoàn toàn tỉnh táo trong lúc có thần lực, và suốt đời ông, sẽ nhớ mãi cảm giác và kinh nghiệm đặc biệt này.
Hoctro-gia Sept 3/08
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét